Hỏi đáp | Drukpa Việt Nam

Bạn đang ở đây

Hỏi đáp

Nguồn gốc tên gọi Truyền thừa Drukpa

(Thánh địa Namdruk, tự viện đầu tiên của Truyền thừa Drukpa)

 

Truyền thừa được mệnh danh Drukpa bắt đầu từ thế kỷ thứ XII, khi Đức Quan Thế Âm Đại Từ Đại Bi hóa thân vào vùng Himalaya làm đại đệ tử của Đại thành tựu giả Lingchen Repa.

Đấng tôn quý có hồng danh là Drogon Tsangpa Gyare (1161-1211), trong tiếng Tạng có nghĩa là “Bậc Hộ trì chúng sinh” (Drogon), “đản sinh tại vùng Tsang”  (Tsang),  “trong một bộ tộc cao quý” (Gya);  “hành giả Yogi áo vải” (Re). 

Cách đây hơn 800 năm, khoảng năm 1206, theo lời huyền ký từ thượng sư của Ngài là Đức Lingchen Repa (1128-1188), Đức Drogon Tsangpa Gyare Yeshe Dorje, Đức Phật Đại Bi, đã đi tìm thánh địa để xây tự viện tại vùng Nam-gyi Phu gần Lhasa. Tương truyền, khi vừa đến địa điểm này, Ngài đã nhìn thấy chín rồng thiêng, hiện thân của các đại thành tựu giả Ấn Độ, từ dưới đất cuộn mình phi thiên trong tiếng rồng sấm vang rền. Trước điềm cát tường như vậy, Ngài Drogon Tsangpa Gyare liền đặt cho Truyền thừa mệnh danh là Drukpa, do đó cả Truyền thừa cùng các đệ tử của Truyền thừa đều được gọi là  Drukpa. 

Đức Drogon Tsangpa Gyare đặt tên cho tự viện xây dựng tại Thánh địa đó là Namdruk, có nghĩa là “Thiên Long”, hay còn gọi là Namdruk Sewa Jangchub Ling, có nghĩa là “Thánh địa Tỉnh thức của Rồng thiêng giác ngộ”. Tất cả các đời hóa thân chuyển thế của Đức Drogon Tsangpa Gyare đều lấy danh hiệu là Gyalwang Drukpa và được ấn chứng là bậc lãnh tụ tâm linh tối cao của truyền thừa Drukpa.


Đức Pháp Vương đời thứ I Drogon Tsangpa Gyare

Đức Drogon Tsangpa Gyare có vô số đệ tử. Tại hai trụ xứ Tổ đình chính là Namdruk và Ralung, mỗi khi Ngài thuyết Pháp, thường có tới hàng chục nghìn hành giả vân tập để thụ nhận giáo pháp khẩu truyền thanh tịnh.

Đức Drogon Tsangpa Gyare đã ba lần yêu cầu các đệ tử phân chia đi khắp chốn để hoằng dương chính pháp. Mỗi lần như vậy, những đại đệ tử xuất chúng đã thành tựu thân cầu vồng lên cõi Devas (tiếng Phạn nghĩa là “chư thiên”), một số xuống cõi Nagas (tiếng Phạn nghĩa là “rắn trời”, tức loài Rồng) và một số tới các cõi nhân gian. Các đệ tử bậc trung đến Oddiyana, Shambhala, Sri Lanka, Serling hay “Đảo Vàng” (Sumatra), Sangling hay “Đảo Đồng” (Java), và những miền xa xôi khác. Số đệ tử còn lại trải khắp những miền đất từ Jalandhara ở Ấn Độ tới những miền địa đầu của Trung Hoa.

Nhờ vậy mà nền di sản tâm linh đã nhanh chóng phát triển mạnh mẽ và phân thành nhiều nhánh:

- Ở miền Tây Himalaya, dòng Thượng Drukpa (tiếng Tạng là To Druk), chúng đệ tử nhiều như hằng hà sa số sao trên trời.

- Ở miền Đông Himalaya, dòng Hạ Drukpa (tiếng Tạng là Me Druk), chúng đệ tử nhiều như cây cối sống trên mặt đất.

- Ở miền Trung Himalaya, dòng Trung Drukpa (tiếng Tạng là Bar Druk), chúng đệ tử nhiều vô số. Chỉ riêng những bậc hành giả đạt thành tựu tâm linh thượng thừa, được tôn vinh là “Bảo cái tối thắng”, đã có tới hơn 2800 vị.

Một hôm, Đức Bản tôn Tối Thắng Kim Cương Chakrasamvara của Đức Drogon Tsangpa Gyare đã khải thị cho Ngài rằng trong hiền kiếp này Ngài sẽ thành tựu ngôi Chính Đẳng Chính Giác, Phật hiệu là Moepa.

Trong Cung Điện Bích Hồ tại thánh địa Tsari, Phật mẫu Vajra Yogini cũng huyền ký rằng Truyền thừa tâm linh của Ngài sẽ phát triển rực rỡ khắp mười phương.

Đúng như lời huyền ký, người dân Himalaya lưu truyền bài kệ cho thấy tầm ảnh hưởng của Truyền thừa Drukpa và sự hưng thịnh của chúng đệ tử tại Himalaya vào thời điểm ấy:

Dòng Drukpa Quang Vinh tối thắng

Đem chính Pháp trải khắp muôn nơi

Linh thứu sải cánh tận chân trời

Mười tám ngày không hề ngừng nghỉ.

Ngoài ra, còn lưu truyền câu ngạn ngữ rằng:

Một nửa người dân là đệ tử Drukpa.

Một nửa đệ tử Drukpa là hành giả Yogi.

Một nửa hành giả Yogi là đại Thành tựu giả.

Thậm chí vào thời mạt pháp ngày nay, Truyền thừa Drukpa vẫn thịnh vượng với khoảng một ngàn tự viện tại vùng Ladakh, Nam Ấn, Tây Bengal, Lahaul, Kinnaur, Nepal, Bhutan, Sikkim thuộc dãy Himalaya, và còn phát triển lan rộng đến rất nhiều quốc gia trên thế giới. Truyền thừa Drukpa tiếp tục hướng đạo cho hàng triệu chúng sinh trên khắp thế giới sống một đời sống trí tuệ, yêu thương và hoà hợp.

 
Ý nghĩa cờ Truyền Thừa Drukpa
(Cờ Truyền thừa Drukpa)
 
Lá cờ của một truyền thống tu tập luôn mang theo ý nghĩa tôn chỉ và mục đích của truyền thống đó. Đối với Truyền thừa Drukpa, các hình ảnh màu sắc của lá cờ có những ý nghĩa căn bản sau: Trước hết, hình tượng Rồng nêu biểu giáo pháp giác ngộ của Đức Phật, là phương tiện thiện xảo của tình yêu thương và cũng gắn liền với hình ảnh cát tường linh thiêng khi chín rồng thiêng thị hiện phi thiên nơi thánh địa Namdruk của Truyền thừa Drukpa gần 1000 năm trước. Hình ảnh Rồng trắng còn đặc biệt nêu biểu cho truyền thống Yogi áo vải thanh tịnh, chân tu thực chứng, thành tựu giác ngộ. Lá cờ Truyền thừa có hai màu là xanh đỏ. Màu xanh nêu biểu Bản tôn Thắng Lạc Kim Cương Chakrasambava là sự đại lạc và tình yêu thương. Màu đỏ nêu biểu bản tôn Bản tôn Mẫu tính trí tuệ Bát Nhã Vajra Yogini. Hai màu này được kết hợp thể hiện sự hợp nhất của Từ bi và Trí tuệ hay Đại lạc và Tính không. Trục trung tâm bánh xe pháp với chữ Druk viết bằng tiếng Tạng nêu biểu cho chân lý vũ trụ được Truyền thừa Drukpa hoằng truyền. Dây quyến sách nêu biểu tinh túy của Bồ đề tâm, sự hợp nhất bất tận của phương tiện thiện xảo và trí tuệ. Như vậy, lá cờ Truyền thừa Drukpa gồm các chi tiết biểu trưng đầy thù thắng của Truyền thừa Tâm Đại bi với di sản 1.000 năm phụng sự nhân loại và vũ trụ.
Ý nghĩa cờ cầu nguyện

 
Cờ cầu nguyện (tiếng Tạng còn gọi lungtahay phong mã) thường được thấy ở các quốc gia vùng Himalaya. Loại cờ này được treo trên mái nhà, mái chùa, ngang qua các vách núi, làng mạc, những địa điểm sinh hoạt cộng đồng. Ý tưởng cờ cầu nguyện xuất phát từ niềm tin xác quyết rằng năng lực gia trì tâm linh từ lá cờ Lungta sẽ được lan tỏa theo hướng gió, không chỉ mang lại lợi ích cho người cắm cờ mà còn hướng đến mọi chúng hữu tình. Cờ cầu nguyện thường được in từ bản khắc bằng gỗ do các nghệ nhân tài năng trạm chổ hoặc các nhà sư. Cờ cầu nguyện có nhiều màu sắc và được làm bằng vải với năm nhóm màu được đặt theo thứ tự (nêu biểu cho Ngũ trí Như lai và năm đại): màu xanh dương (đức Phật A Súc Bệ/Thủy đại), màu vàng (đức Phật  Bảo  Sinh  Phật/Địa  đại),  màu  đỏ  (đức Phật  A  Di  Đà  Hỏa  đại),  màu  xanh  lam  (đức Phật Bất Không Thành Tựu/ Phong đại), màu trắng (đức Phật Tỳ Lư Giá Na/ Không đại). Loại cờ cầu nguyện được treo theo hướng thẳng đứng  được  gọi  là  “darding”.  Cờ  cầu  nguyện treo nằm ngang được gọi là “dar-chen”. Các hình ảnh thông dụng được in trên lá cờ cầu nguyện là hình ngựa gió, pháp tướng các Phật Bản tôn như Đức Lục Độ Mẫu Tara, Đức Quan Âm, đức Vô Lượng Thọ, Đức Dược Sư, Đức Liên Hoa Sinh, Đức Kim Cương Tát Đỏa, Phật Bạch Độ Mẫu, hình Tứ linh (Mệnh lệnh điểu, Rồng, Sư tử, Hổ) Thời luân Kim cương Kalachakra. Được in cùng hình ảnh đức Phật là các câu chân ngôn, biểu tượng cát tường và những lời cầu nguyện…Cờ cầu nguyện được treo ngoài trời và chịu mọi tác động thời tiết nắng mưa gió bụi khiến dễ phai màu. Đây cũng là sự nhắc nhở về lẽ vô thường. Khi lá cờ bị rách, người ta thường đem đốt trong các nghi lễ thích hợp tại chùa để viên mãn tâm nguyện.

Ý nghĩa cờ Phật giáo
Những điều cần biết trong nghi lễ giao tiếp với bậc Thượng sư và Tăng đoàn Kim Cương thừa

Lời giới thiệu ngắn gọn dưới đây là sự hướng dẫn cơ bản cho quý vị Phật tử nói chung và đặc biệt là các hành giả mới nhập môn theo truyền thống Kim Cương thừa. Các nghi lễ này có thể thay đổi theo đặc thù của từng truyền thống khác nhau. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất để đi theo con đường tâm linh là tâm chí thành cung kính hướng về Thượng sư, tâm nguyện tha thiết được đón nhận giáo lý từ Ngài và động lực chân chính thực hành Phật pháp.

Trong thời hiện đại, khi cơ hội được hạnh ngộ, giao lưu chư vị Thượng sư và Tăng đoàn trở nên dễ dàng hơn nhờ các phương tiện giao thông vận tải hoặc truyền thông, chúng tôi càng đặc biệt lưu ý các quý Phật tử, bằng hữu gần xa về các nghi lễ cần có trong Kim Cương thừa. Đặc biệt trong tương tác với chư Thượng sư và Tăng đoàn, chúng ta cần có thái độ hết mực cẩn trọng, tôn kính, khiêm cung. Hãy luôn giữ đúng vị trí và bổn phận của người Phật tử trong các trao đổi, tương tác với Quý Ngài dù qua các hình thức gặp gỡ trực tiếp, viết thư hay hội thoại trên trang web hoặc mạng xã hội các Ngài sử dụng để chia sẻ Phật pháp. Trước sự hiện diện dù là trực tiếp hoặc gián tiếp của Quý Ngài, Quý vị cần tránh không dùng các cử chỉ lời nói bình dân, thiếu tôn kính, phi uy nghi có thể tạo bất thiện nghiệp, tổn phước và gây hiểu nhầm, phản cảm trước đại chúng!

A: TRƯỚC SỰ HIỆN DIỆN CỦA BẬC THƯỢNG SƯ

1. Rinpoche, tiếng Tạng có nghĩa là “Thượng sư Tôn quý”, nói chung đây là cách gọi tôn kính với bậc Hóa thân chuyển thế chứng ngộ đã được công nhận và ấn chứng. Trong tất cả các trường hợp, sau khi được tìm thấy và ấn chứng, một Rinpoche phải trải qua sự rèn luyện, tu học rất nghiêm khắc từ khi còn rất nhỏ. Lý do chính để các Ngài tiếp tục chuyển thế, sống trong cảnh thế gian trần lụy là vì các Ngài muốn hiển lộ tiềm năng tâm linh, đem lại an vui cho vô lượng hữu tình. Một Rinpoche tiếp tục hóa thân chuyển thế nhằm mục đích tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn thông qua những công hạnh Bồ Tát lợi ích chúng sinh hữu duyên. Bởi các Ngài giành trọn cuộc đời cho sự nghiệp vô ngã vị tha, cho nên các Ngài được tôn xưng là “Rinpoche”, một Bậc tôn quý xứng đáng với sự tôn trọng, lòng thành kính cũng như những cư xử nghiêm cẩn hết mực.

2. Lama, nguyên gốc là “Guru”. ‘Guru’ là một Thượng sư tâm linh có khả năng hướng đạo cho những đệ tử theo Ngài trên con đường nhằm đạt tới giác ngộ. Như vậy theo truyền thống Kim Cương thừa, thuật ngữ ‘Lama’ không được phép sử dụng một cách tùy tiện, Lama phải là một Thượng sư vĩ đại và chứng ngộ. Tuy nhiên, ngày nay phần lớn chư Tăng Kim Cương thừa nói chung đều được xác định là ‘Lama’ dù họ thành tựu tu tập về mặt tâm linh ở mức độ nào, dù họ thay mặt giữ trọng trách cao hay thấp trong tự viện.

3. Theo truyền thống Kim Cương thừa, khi chào một Rinpoche hoặc một vị Tăng (hoặc Ni), người ta sẽ cúng dường một chiếc khăn Khatag trắng (khăn lụa cát tường). Nếu Ngài là một Rinpoche vĩ đại và sẽ trở thành Bản sư của người đó thì người đó phải đỉnh lễ ba lần ngay tại nơi mà mình đã cúng dường khăn Khatag trắng.

4. Khi chia tay, thường không được đỉnh lễ Thầy, bởi truyền thống Kim Cương thừa cho rằng điều này là biểu hiện bất tường, người đó đã quyết định cắt đứt mối quan hệ hoặc nhân duyên thầy trò, và nguyện không muốn gặp lại Thầy mình trong những đời sau.

5. Việc cúng dường bậc Thầy để thỉnh pháp, xin những lời huấn thị, bày tỏ lòng tôn kính,… giúp người cúng dường tích lũy vô lượng công đức và loại bỏ tâm sở chấp bủn xỉn. Phẩm vật cúng dường phải thanh tịnh, có thể là tịnh tài, hoa quả, hay bất cứ thứ gì mà người cúng cảm thấy quý giá với mình, và thường được tiến cúng bằng cách cuộn trong chiếc khăn Khatag trắng dâng cúng lên bậc Thầy với tâm chân thành và sự trân trọng nhất.

6. Mặc dù phần lớn các Thượng Sư không yêu cầu sự đối xử đặc biệt mà cho phép mỗi người cư xử theo cách riêng của mình trước sự hiện diện của các Ngài. Tuy nhiên, vì lợi ích của các Phật tử, họ phải có những hành vi cử chỉ khiêm cung đúng mực trước sự có mặt của những Thượng Sư và đoàn tùy tùng:

a. Khi bậc Thượng Sư đi vào phòng, nếu bạn đang ngồi thì bạn phải nhẹ nhàng đứng lên và cúi đầu kính cẩn trước sự hiện diện của các Ngài.

b. Phải ngay lập tức cúng dường các Ngài ghế hoặc tòa ngồi khi các Ngài bước vào phòng.

c.  Phần lớn các Thượng Sư thường mời mọi người ngồi ngang tầm với mình, khi đó bạn phải từ chối lời mời của các Ngài và xin phép ngồi ở ghế thấp hơn hoặc trên sàn nhà.

d. Chỉ được ngồi sau khi các Thượng Sư và đoàn tùy tùng đã an tọa.

e. Luôn chú tâm tới sức khỏe của các Thượng Sư và cả thị giả của các Ngài, không nên hỏi bất kỳ câu hỏi cụ thể nào về dâng nước, đồ uống, giặt giũ, khăn tắm, nghỉ ngơi,… Nhiều Thượng sư sức khỏe không tốt, khiến các Ngài không thể ăn một số loại thức ăn nhất định và nếu như bạn không tìm hiểu, bạn có thể cúng những đồ ăn có hại cho sức khỏe của các Ngài.

f.  Mặc dầu các Thượng Sư chứng ngộ là hiện thân của các Đấng Giác Ngộ nhưng vì lợi ích của chúng ta, các Ngài hiện thân trong hình tướng loài người nên các Ngài cũng cần phải nghỉ ngơi. Do đó, bổn phận của hàng đệ tử là phải sắp xếp một cách phù hợp thời gian nghỉ ngơi, thời gian giảng pháp cho đại chúng cũng như thời gian gặp riêng cho các thính giả.

g. Nếu bạn cảm thấy cần có sự gia trì của Thượng sư trước khi muốn thực hiện bất kỳ một hoạt động Phật Pháp nào thì bạn phải thỉnh cầu các Thượng sư hoặc thị giả của Ngài. Đồng thời cũng phải quan tâm tới mong muốn của các Ngài. Nếu Thượng sư từ chối thì không nên nài nỉ.

B: TRONG TỰ VIỆN HAY CHÍNH ĐIỆN

1. Một tự viện hay chính điện được coi là một Mandala giác ngộ của Thượng sư, nơi truyền giảng những giáo pháp linh thiêng của đức Phật và các bậc Giác ngộ. Do vậy, bạn nên giữ thái độ tôn kính, khiêm cung khi ở tự viện và chính điện.

2. Hãy ngồi trong tư thế bán già trang nghiêm trên tọa cụ trên sàn. Nếu thân thể có bệnh, không thoải mái không thể ngồi được như vậy, bạn nên ngồi trên ghế sau chính điện. Tư thế bán già hay kiết già (còn goi là tư thế liên hoa) biểu hiện thái độ tôn trọng đồng thời tạo ra sự định tâm để đón nhận chân lý và diệu pháp tôn quý. Không được ngồi duỗi thẳng chân, không được nằm vì đây là những biểu hiện thiếu tôn trọng và bất lịch sự. Ngồi bán già hay thậm chí ngồi trên ghế có thể khó chịu sau một bài giảng dài nên bạn được phép thay đổi tư thế ngồi một chút. Ngồi bán già càng lâu thì bạn càng quen với tư thế đó. Ngồi bán già là một phần của thực hành tâm linh, và khả năng ngồi nhiều tiếng là một điều rất quan trọng đối với một hành giả tâm linh thuần thục.

3. Bạn nên cởi bỏ giày dép và mũ nón, để bên ngoài cửa trước khi bước vào một tự viện hay chính điện. Không mặc váy ngắn và trang phục hở hang thiếu lịch sự. Nếu bạn mặc váy quá ngắn nên mang theo một chiếc khăn choàng để chùm chân khi ngồi. Trong bất cứ tình huống nào, bạn không nên làm động niệm những người thoát tục thanh tịnh, như chư Đại Đức Tăng Ni đang tu hành trong tự viện hoặc chính điện. Bạn không nên nói chuyện trong chính điện, vì phần lớn mọi người đang tĩnh tâm thiền định.

4. Không được đặt các kinh sách trên sàn. Bởi kinh điển hàm chứa những chân lý giác ngộ cứu kính cao quý, vì thế bạn nên đặt trên bàn hoặc trên khăn trải với sự thành kính, tôn trọng. Bạn không được bước qua, giẫm và ngồi lên kinh sách. Bạn nên tôn trọng cả kinh văn và kinh tụng. Khi Thượng sư đang giảng pháp và cầu nguyện, bạn không nên đi lại ra vào phạm vi đàn tràng. Ngoại trừ khi dâng cúng trà cho các Thượng sư, đoàn tùy tùng, thính giả hay một người đang bị bệnh, bạn không nên đi lại tự do trong thời gian Ngài thực hành nghi lễ, giảng pháp hay thiền định. Điều đó sẽ làm động niệm Thượng sư và những người xung quanh, và thể hiện rằng bạn không tôn trọng Thượng sư. Khi các phần nghi lễ này kết thúc, bạn được phép tự do hỏi đáp trong khoảng thời gian cho phép.

5. Khi bước vào chính điện, hành giả đối diện ban thờ, đỉnh lễ ba lần, bạn nên cúi đầu chắp tay đặt giữa ngực. Việc đỉnh lễ thực ra là xả ngã và xả bỏ chấp thủ của mình vì lợi ích của vô lượng chúng sinh. Điều này giúp hướng đến Bồ đề tâm, xả bỏ thân mệnh, tài bảo, vì phúc lợi của mọi người và tiến trình dẫn đến giác ngộ.

Chúc mừng năm mới
Số lượt truy cập: 3,118,402
Số người trực tuyến: