Mandala là gì? Mục đích, ý nghĩa và quá trình kiến lập Mandala | Drukpa Việt Nam

Bạn đang ở đây

Mandala là gì? Mục đích, ý nghĩa và quá trình kiến lập Mandala

3642
15/09/2022 - 19:36
Mandala xuất phát từ gốc “manda” có ý nghĩa là “tinh túy” và hậu tố “la” sau này được thêm vào nghĩa là “chứa đựng”. Từ đó Mandala được giải thích rõ ràng là chứa đựng sự tinh túy. Hình ảnh Mandala biểu trưng cho thân và tâm của đức Phật. Trong đạo Phật bí truyền, nguyên lý về Mandala là sự hiển diện của đức Phật trong mình nhưng không nhất thiết có sự hiển diện của những hóa thần. Những hóa thần có thể được biểu trưng là một bánh xe, cây cối hoặc một đồ trang sức hay bất kỳ hiện thân mang tính tượng trưng khác.

1. SÁNG TẠO MỘT MANDALA

Sự bắt đầu của một Mandala lấy trung tâm là một dấu chấm. Đây là một biểu tượng rõ ràng về sự vô hạn và cũng là một chủng tử - một hạt giống hay là điểm bắt đầu quan trọng nhất. Tâm điểm này thu hút tất cả năng lượng vũ trụ bên ngoài, và trong vai trò là lực hút, năng lượng của người tín tâm được khai mở và cũng được hút vào trong đó. Vì vậy, Mandala là biểu trưng của tất cả không gian vũ trụ bên ngoài và bên trong với mục đích là loại bỏ sự ngăn cách giữa vật thể và chủ thể. Trong quá trình này, Mandala được coi là một Bản tôn hóa thần.

Trong việc kiến lập Mandala, một đường thẳng sẽ xuất hiện từ tâm điểm và những đường thẳng khác sẽ được vẽ cho đến khi chúng giao nhau tạo ra những hình tam giác. Vòng tròn được vẽ xung quanh biểu trưng cho ý thức đầy xung lực khởi đầu. Hình vuông bên ngoài biểu trưng cho thế giới vật chất hướng ra bốn phương, được biểu trưng bởi bốn cổng, khu vực trung tâm là nơi an trụ của Bản tôn. Trung tâm Mandala được coi là sự tinh túy, và đường tròn là sự bảo trì. Bởi vậy một đồ hình Mandala hoàn chỉnh có nghĩa là bảo trì sự tinh túy.

2. KIẾN LẬP MANDALA

Trước khi một vị tăng sĩ được phép đảm nhận công việc kiến lập Mandala, vị tăng đó phải trải qua một thời gian dài được đào tạo kỹ năng về nghệ thuật và khả năng ghi nhớ, học cách vẽ tất cả các loại biểu tượng khác nhau và nghiên cứu những tư tưởng triết học có liên quan. Ví dụ, tại tự viện Namgyal thì thời gian tu học này kéo dài đến ba năm. 

Ở những giai đoạn đầu tiên của quy trình kiến lập Mandala, những vị tăng phải ngồi ở phần ngoài của chiếc Mandala cơ bản chưa được phủ đá màu, phải luôn hướng mặt vào trung tâm Mandala. Đối với những Mandala cỡ lớn, khi những vị tăng vẽ được một nửa, họ phải đứng trên sàn nhà và cúi người xuống để rắc màu. 

Theo truyền thống thì một Mandala được phân chia thành bốn phần bằng nhau và mỗi vị tăng chịu trách nhiệm một phần. Tại nơi những vị tăng đứng để rắc màu, một người phụ việc sẽ nối bốn phần lại với nhau. Những người phụ việc này làm việc mang tính hợp tác để giúp các vị tăng rắc màu vào bốn phần của Mandala trong khi bốn vị tăng này tiếp tục phác họa lên những chi tiết khác. 

Những vị tăng sẽ nhớ lại tất cả những chi tiết của một Mandala giống như phần đồ hình được học trong chương trình đào tạo tại tự viện của họ. Điều rất quan trọng cần  nhớ là việc kiến lập một Mandala hoàn toàn dựa chính xác vào mô tả của kinh điển. Khi kết thúc mỗi phần công việc, chư tăng hồi hướng bất cứ công đức tâm linh hoặc nghệ thuật tích lũy được từ công việc này vì lợi ích của hết thảy hữu tình.

Sự thực hành này được thực hiện trong tất cả những tác phẩm nghệ thuật tâm linh. Một lý do chính chư tăng tập trung cực kỳ cao độ vào công việc bởi họ thực sự đang truyền đạt giáo lý của đức Phật. Mandala chứa đựng những lời giáo huấn của đức Phật để chứng đạt đại giải thoát giác ngộ. Động cơ thanh tịnh và sự hoàn hảo trong tác phẩm của họ tạo duyên cho những người chiêm ngưỡng được lợi ích cao nhất.

Mỗi chi tiết trong bốn phần Mandala đều hướng mặt về trung tâm, vì thế mỗi chi tiết đó đều hướng mặt về nơi Bản Tôn an trụ trong Mandala. Về mặt phối cảnh, đối với những người chiêm ngưỡng đứng xung quanh Mandala thì những chi tiết ở phần gần nhất của Mandala sẽ hiển lộ ra theo thế  đảo ngược, trong khi đó những chi tiết của phần xa nhất thì đúng chiều. 

Nói chung mỗi vị Tăng chịu trách nhiệm phần của mình trong khi đá màu rắc các phần cung điện vuông. Khi rắc đá vào những đường tròn đồng tâm, thì họ phải lần lượt chuyển động xung quanh Mandala. Họ cùng làm việc và cùng đợi cho từng giai đoạn kiến lập Mandala hoàn thành trước khi cùng nhau tiếp tục di chuyển ra ngoài. Điều này đảm bảo sự đồng đều trong quá trình tạo hình được duy trì, và như vậy cả bốn phần của Mandala sẽ được hoàn tất cùng một lúc.

Việc chuẩn bị để kiến lập một Mandala là sự nỗ lực về nghệ thuật nhưng đồng thời nó cũng là một hành động đầy tôn kính. Trong sự tôn kính này, những tư tưởng và sắc tướng được kiến lập, trong đó những trực giác sâu sắc nhất sẽ được biểu đạt bởi người Nghệ sĩ – Tăng sĩ ở mức thang cao nhất của nghệ thuật tâm linh. Quá trình kiến lập Mandala thường được thiền định là một chuỗi trải nghiệm không gian mà tinh túy của nó có trước sự tồn tại, điều này có nghĩa là tư tưởng có trước sắc tướng.

Ở dạng phổ biến nhất, Mandala chính là hàng loạt vòng tròn đồng tâm. Mỗi Mandala đều có một Bản Tôn riêng an trụ trong cấu trúc hình vuông được đặt đồng tâm bên trong những vòng tròn này. Hình vuông hoàn hảo của Mandala chỉ ra rằng không gian tuyệt đối của trí tuệ vốn không si ám. Cấu trúc hình vuông này có bốn cổng  được vẽ rất tỉ mỷ biểu trưng cho sự hội tụ của Tứ Vô Lượng Tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả). Mỗi chiếc cổng được trang hoàng bằng những chiếc chuông, tràng hoa và các chi tiết, họa tiết trang trí khác. Hình vuông này xác định kiến trúc của Mandala được miêu tả là một cung điện hoặc một ngôi chùa có bốn mặt: Là một cung điện bởi vì đó là nơi an trụ của các Bản Tôn chính trong Mandala, còn là một ngôi chùa bởi đây cũng là nơi chứa đựng tinh túy của Đức Phật.

Hàng loạt những đường tròn bao quanh cung điện trung tâm theo một cấu trúc mang tính biểu tượng mạnh mẽ. Bắt đầu với những vòng tròn bên ngoài, bạn sẽ nhận thấy một vành lửa, thường được mô tả là một hình trang trí có đường cuộn độc đáo. Vành lửa biểu trưng cho quá trình chuyển hóa mà những phàm tình chúng sinh phải trải qua trước khi nhập vào miền Tịnh Độ linh thiêng bên trong. Kế đến là một vòng Quyền Trượng Kim Cương, chỉ ra sự không thể phá hủy và kim cương giống như sự huy hoàng rực rỡ bảo vệ cảnh giới tâm linh của Mandala. Trong đường tròn đồng tâm kế tiếp, đặc biệt là những Mandala đặc trưng của những Bản Tôn phẫn nộ, bạn có thể nhìn thấy tám nghĩa địa được sắp xếp trên một băng rộng. Tám nghĩa địa này biểu trưng cho tám yếu tố của thức loài người trói buộc họ vào thế giới hiện tượng và vòng luân hồi sinh tử.

Sau cùng, tại trung tâm của Mandala là tọa vị của Bản Tôn. Thường thì khi nhìn vào trung tâm Bản Tôn của Mandala, chúng ta  sẽ biết được đây là Mandala nào. Người ta cho rằng Mandala có được quyền lực và công năng tâm linh đặc biệt là do chính Bản Tôn trong Mandala. Một cách chung nhất Bản Tôn trung tâm có thể thuộc một trong ba loại dưới đây:

3. BẢN TÔN HIỀN HÒA

Một Bản Tôn hiền hòa biểu trưng cho sự tiếp cận tâm linh và và có những phẩm tính riêng của mình. Ví dụ, một hình ảnh Bồ Tát (Quan Thế Âm Bồ Tát) biểu trưng cho lòng Từ là trọng tâm của trải nghiệm tâm linh; Bồ Tát Văn Thù thì lấy Trí tuệ làm trọng tâm và Đức Kim Cương Thủ lại nhấn mạnh tới lòng Dũng cảm và Trí lực để tìm cầu trí tuệ thiêng liêng.

4. BẢN TÔN UY MÃNH

Những Bản Tôn uy mãnh biểu trưng sự đấu tranh mạnh mẽ để chuyển hóa những cảm xúc sân giận thành dũng lực nơi mỗi người. Bản Tôn này là hiện thân của tất cả phiền não bên trong làm đen tối những tư tưởng, lời nói và hành động của chúng ta và ngăn cản chúng ta đạt đến mục đích của đạo Phật là sự toàn giác. Theo truyền thống thì những Bản Tôn uy mãnh được hiểu là những khía cạnh của nguyên lý Từ Bi, chỉ đáng sợ đối với những người thấy họ như những thế lực bên ngoài. Khi nhận ra được những khía cạnh của tự thân và được thuần dưỡng với sự thực hành tâm linh thì họ nhận ra pháp tướng bên ngoài của các vị Bản tôn này rất thanh tịnh và từ bi. 

5. BIỂU TƯỢNG MÀU SẮC CỦA MANDALA

Nếu hình thể là cốt yếu của Mandala thì màu sắc cũng như vậy. Bốn phần của cung điện Mandala được phân chia điển hình theo những hình tam giác cân của màu sắc, bao gồm bốn phần của năm màu: Màu trắng, vàng, đỏ, xanh lục, xanh sẫm. Mỗi màu này đều có liên quan tới một trong năm đức Phật siêu việt, thêm nữa chúng cũng có liên quan tới năm ảo tưởng của bản chất con người. Những ảo tưởng này che chướng bản chất chân thật của chúng ta, nhưng thông qua việc thực hành tâm linh, chúng có thể chuyển hóa thành năm trí tuệ tương ứng với năm đức Phật siêu việt, cụ thể là:

  • Màu trắng –  Vairocana (Đức Tỳ Lư Giá Na Phật): Ảo tưởng của vô minh trở thành Pháp Giới Thể Tính Trí.
  • Màu vàng -  Ratnasambhava (Bảo Sinh Phật): Ảo tưởng của ngã mạn chuyển thành Bình Đẳng Tính Trí. 
  • Màu đỏ - Đức A Di Đà: Si mê của chấp thủ trở thành Diệu Quan Sát Trí.
  • Màu xanh lục - (Bất Không Thành Tựu Phật): Si mê đố kỵ trở thành Thành Sở Tác Trí.
  • Màu xanh sẫm - (Đức A Súc Bệ): Si mê của sân giận trở thành Đại Viên Cảnh Trí. 


Đại Mandala Đức Phật Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn tại Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên

Mandala là phẩm vật cúng dường thiêng liêng. Bên cạnh việc trang trí và làm cho những ngôi chùa và nơi ở trở nên thiêng liêng, theo truyền thống Kim Cương Thừa thì Mandala còn được dùng để cúng dường tới các bậc Thầy khi thỉnh cầu các bậc Thầy truyền trao giáo pháp hay quán đỉnh. Lúc này, Mandala được dùng để biểu trưng cho toàn bộ vũ trụ, là phương tiện bày tỏ lòng tri ân cao nhất đối với giáo pháp tôn quý. Một lần, trong khung cảnh hoang sơ của miền sa mạc Ấn Độ, Đại Thành Tựu Giả Tilopa đã yêu cầu Đức Naropa cúng dường Mandala. Lúc bấy giờ ở đó không có sẵn chất liệu để kiến lập một Mandala nên Đức Naropa với tín tâm thanh tịnh đã đi tiểu vào cát và tạo thành một Mandala bằng cát ướt để làm phẩm vật cúng dường lên bậc Thầy của mình. Trong một dịp khác, Đức Naropa đã dùng máu, đầu và các chi của mình để tạo một Mandala cúng dường. Bậc Thầy của Ngài đã hoan hỷ chứng minh lòng chí thành dâng hiến và những phẩm vật cúng dường của Ngài. 

6. KẾT LUẬN

Sự quán tưởng và cụ thể hóa khái niệm Mandala là một trong những đóng góp có ý nghĩa nhất của Đạo Phật đối với tâm lý học tôn giáo. Mandala được coi là nơi linh thiêng, bằng chính sự hiển diện của Mandala trên thế giới này đã nhắc nhở người chiêm ngưỡng về nội tại của tính thiêng liêng trong vũ trụ và tiềm năng của vũ trụ trong bản thân mỗi người. Trong Đạo Phật, mục đích của Mandala là chấm dứt sự đau khổ của con người để thành tựu giác ngộ và để đạt được chính kiến về Thực Tại hay bản chất chân thật của vạn pháp. Mandala là một phương tiện để khám phá ra phẩm chất siêu việt thông qua sự chứng ngộ Mandala nơi tự tâm của mỗi người.    

Cùng tham gia Pháp hội online chuyên tu Phật Quan Âm Độ Mẫu Tara

Pháp tu Đức Phật Quan Âm Độ Mẫu Tara là một nguồn lực gia trì đặc biệt mạnh mẽ. Bậc Giải Thoát Chúng Sinh Lục Độ Phật Mẫu Tara hiện diện nơi thế gian để gia trì trường thọ, cứu giúp khỏi mọi khổ đau, sợ hãi và đảm bảo sự giải thoát, hạnh phúc an lạc cho vô lượng chúng sinh.

Thực hành tu trì trực tuyến đảm bảo tuân thủ đúng quy tắc phòng chống dịch bệnh, đồng thời vẫn giúp các Phật tử có cơ hội thực hành, tích lũy công đức, viên mãn tâm nguyện và hồi hướng cho an lạc, hạnh phúc của chúng sinh.

[ - Bấm vào đây để tham gia Pháp hội online - ] 

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Số lượt truy cập: 3,120,596
Số người trực tuyến: