Phụ nữ và giác ngộ không phân biệt giới tính trong quan kiến Kim cương thừa | Drukpa Việt Nam

Bạn đang ở đây

Phụ nữ và giác ngộ không phân biệt giới tính trong quan kiến Kim cương thừa

1104
01/09/2021 - 14:49
 
(Bát Nhã Phật Mẫu)
Bình đẳng giới và  phong trào giải phóng phụ  nữ, xét ở một mức  độ nào đó, đã được cải thiện ở nhiều nơi trên thế  giới. Thế nhưng,  trong cộng đồng Phật Giáo vẫn tồn tại rất nhiều thành kiến và  sự nghi ngờ đối với khả  năng tu học, thành tựu, đặc biệt là  thành tựu đại giác ngộ  của người nữ. Dường như sự hiện hữu của những nữ nhân kiệt xuất trong lịch sử Phật giáo chưa đủ sức thuyết phục đa số nhân loại tin tưởng vào năng lực của người nữ có thể thực sự thành tựu giác ngộ.
   
Trong thế giới quan của Đạo Phật, tất thảy vạn loài chúng sinh đều vốn sẵn đủ Phật tính, tất cả mọi người đều có tiềm năng và khả năng chứng đạt giác ngộ dù người đó là ai, thuộc đẳng cấp xã hội nào và dù đó là người nam hay nữ.

Ngay từ thời Đức Phật trụ thế, Ngài đã tuyên bố và ấn chứng quyền được tu tập giáo pháp giải thoát cũng như khả năng tu tập thành tựu giác ngộ tối thượng của người nữ. Sự quyết định và ấn chứng của Đức Phật chính là một bước ngoặt của lịch sử nhân loại, mang lại cho người nữ quyền được tham dự vào Tăng đoàn, quyền được đón nhận giáo lý và tu tập giáo pháp giải thoát, được khai phát trưởng dưỡng những phẩm hạnh cao quý bi- trí- dũng để chứng đạt cảnh giới giác ngộ. Có thể liệt kê một số các hàng nữ hành giả cũng có khả năng vượt bậc, chứng đắc vô sở úy như Tỳ kheo ni Maha Pajapati Gotami, bậc đại trí tuệ đệ nhất Khema, bậc thần thông đệ nhất Uppalavanna, trì luật đệ nhất là Patacara, thuyết pháp đệ nhất là Dhammadinna, tu thiền đệ nhất là Nanada, chuyên cần tinh tấn đệ nhất là Sona, thiên nhãn đệ nhất là Sakula, thắng trí tấn tốc đệ nhất là Bhaddà Kundalakesa…

Như vậy, sự ấn chứng của Đức Phật và những minh chứng thành tựu Phật quả giải thoát của chính các nữ hành giả thời Đức Phật tại thế giúp khẳng định rằng người nữ hoàn toàn không thua kém với người nam về phương diện khả năng và sự thành tựu quả vị giác ngộ tối thượng.

TRÍ TUỆ PHỤ NỮ VÀ NGUYÊN LÝ MẪU TÍNH TRONG KIM CƯƠNG THỪA

(Đức Phật Mẫu Bát Nhã)

Đến đây, một câu hỏi cần được đặt ra: tại sao trên mọi bình diện học thuyết và thực tế cuộc sống, Đạo Phật đều chủ trương không phân biệt giới tính, và với bằng ấy sự ấn chứng của Đức Phật cũng như thực tế lịch sử đã chứng minh rằng người nữ thật sự có khả năng thành tựu và chứng đạt giác ngộ không khác gì người nam, vậy mà hiện thực xã hội ngày nay lại cho thấy các nữ hành giả phần nhiều vẫn còn quá tự ti, không tin vào khả năng thành tựu Phật quả ngay trong thân nữ vốn được coi là bất tịnh và bất tài đến như để trở thành Ma Vương cũng là điều không thể? Nặng nề hơn nữa là phần đông xã hội và nửa kia của thế giới luôn áp đặt lên họ những thành kiến cố hữu, đánh giá thấp và thiếu niềm tin ở người nữ, luôn phân biệt đối xử giữa nam và nữ, giữa Tăng và Ni, giữa nam cư sĩ và nữ cư sĩ; hoặc phủ nhận nhiều khả năng nhất định của nữ giới. Nếu được hỏi người nữ có thể chứng đạt đại giác ngộ trong thân nữ hay không, chắc chắn câu trả lời nhận được từ nhiều người sẽ là không hoặc tỏ thái độ nghi ngờ vì cho rằng về mặt lý là có thể nhưng về mặt sự thì không. Hệ quả là nữ giới bị kìm hãm sự phát triển và bị phong tỏa trên con đường tiến tới giác ngộ cứu kính.  

Nguyên nhân  thì rất nhiều, nhưng căn nguyên chính nằm ở sự nhận thức. Phàm phu chúng ta chưa có trí tuệ viên mãn như chư Phật, chư Bồ Tát, nhưng trước hết chúng ta phải có nhận thức đúng đắn khế hợp với chính pháp. Sự phân biệt giới tính sở dĩ tồn tại là do chúng ta còn bám chấp những tà kiến sai lầm. Hoặc có thể nhiều người trong chúng ta mặc dù đã quá quen thuộc với ý niệm Đạo Phật là không phân biệt giới tính và giác ngộ không phân biệt giới tính, nhưng sự hiểu biết ấy có lẽ chưa đủ sâu sắc để cải biến định kiến đã ăn sâu vào tiềm thức của chúng ta về vấn đề phụ nữ và giác ngộ. Vậy, chúng ta hãy tìm hiểu kỹ hơn về trí tuệ phụ nữ trong giáo pháp của Đạo Phật, đặc biệt là trong truyền thống Kim Cương Thừa để có được chính kiến thực sự sâu sắc có công năng đập tan vọng tưởng phân biệt giới tính.

Trong Đạo Phật, nguyên lý mẫu tính nêu biểu cho trí tuệ bản lai. Vì Phật quả là sự viên mãn của trí tuệ bản lai, nên trí tuệ còn được xem như là mẹ của hết thảy chư Phật. Trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa và Bát Nhã Tâm Kinh, Đại Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật chính là biểu tượng của trí tuệ ban sơ đại toàn thiện đại viên mãn này. Trí tuệ Bát Nhã Ba La Mật, sự viên mãn của trí tuệ sâu xa của nguyên lý mẫu tính được gọi là “Thai tạng của chư Như Lai” hay “Mẹ của chư Phật”. Trí tuệ Bát Nhã là tính chất trí tuệ sắc bén với sự xả bỏ bản ngã. Năng lực này của trí tuệ sâu xa là suối nguồn, hay thai tạng nơi chư Phật hiển lộ, và vì thế được gọi là “Thai tạng của chư Phật”. Và trí tuệ ấy được thể hiện bằng hình tượng Bát Nhã Phật Mẫu. Do đó, trong Đạo Phật, trí tuệ phụ nữ chính là trí tuệ tính không siêu việt. Phụ nữ và phương diện nữ tính bên trong mọi chúng sinh bất kể nam hay nữ biểu trưng cho đại trí tuệ siêu việt.

Thông thường, nhiều người quan niệm rằng phụ nữ được liên hệ với tình thương, lòng nhân từ, từ bi chứ không phải trí tuệ, còn người nam mới là đại diện của trí tuệ. Và sự từ bi của người nữ thường được cho là chỉ dừng lại ở lòng tốt, nhân hậu, tử tế, thương người. Nguyên nhân của sự nhầm lẫn này là do chúng ta không hiểu về những nguyên lý mẫu tính và phụ tính bên trong mọi sinh linh. Thực tế, mỗi hữu tình đều mang trong mình hai nguồn năng lượng mẫu tính và phụ tính. Theo quan điểm Kim cương thừa, mỗi một người nam hay nữ đều sẵn đủ toàn vẹn viên mãn của mẫu tính và phụ tính. Những nguyên lý này là dòng năng lượng chảy trong cơ thể cả nam giới và nữ giới. Khía cạnh năng lượng nam tính chính là tâm đại từ bi vô lượng và năng lượng âm tính chính là đại trí tuệ toàn tri - cội nguồn của vạn pháp. Hai nguyên lý mẫu tính và phụ tính hay đại trí tuệ siêu việt và đại từ bi vô lượng là tương sinh tương hợp và bất khả phân, chính vì thế mà mọi hữu tình đều bình đẳng, vốn sẵn đủ Phật tính và đều có khả năng giác ngộ thành Phật. Nhìn từ bình diện chân lý tuyệt đối, trí tuệ và từ bi hay hai dòng năng lượng phụ tính và mẫu tính là bất khả phân, nhưng một cách tương đối, sự thể hiện ra bên ngoài dưới lăng kính nghiệp báo của chúng sinh chúng ta lại thấy chúng dường như phân chia tách biệt, có nam có nữ. Sự phân biệt giới tính chính từ đây thành lập và giải thích tại sao sự bám chấp này lại kiên cố nặng nề như vậy. Do vô minh và nghiệp lực chi phối nên chúng ta chỉ thấy khía cạnh là nam hoặc là nữ trong mỗi người mà thôi. Bên cạnh đó từ khi sinh ra chúng ta được rèn luyện một cách sai lầm trong cách nhìn nhận sai lầm của nhiều nền giáo dục, văn hóa và tôn giáo, khía cạnh nam tính trong người nữ không được coi trọng và nhìn nhận đúng mức, thậm chí bị xuyên tạc và bị gạt ra khỏi nguồn năng lượng - tiềm năng giác ngộ của chính họ. Vì thế, chúng ta không có khả năng hợp nhất viên mãn những nguồn năng lượng này. Đàn ông cố che giấu khía cạnh nữ tính nơi mình, còn phụ nữ thì lại sợ bộc lộ năng lượng nam tính trong họ. Kết quả là họ luôn cảm thấy cô đơn và thiếu thốn và cần một đối tượng bên ngoài để thỏa mãn sự cô đơn đó. Chính họ đã lãng quên suối nguồn Phật Mẫu tính và Phật Phụ tính trong chính mình. Cứ như thế, họ cứ tìm cầu những giải pháp bên ngoài và càng mãi trôi lăn trong những chướng ngại khổ đau không cùng tận. Trong hoàn cảnh như vậy, người nữ ngày càng trở nên tự ti hơn, ngày càng giới hạn mình vào những thiên kiến hạn hẹp.

Có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi rằng chúng ta thực sự  là ai, tại sao chúng ta lại sân giận, ham muốn, khi sân giận ham muốn chúng ta vừa thỏa mãn lại vụt tắt ngay, rồi lại tiếp tục các sân giận, ham muốn khác, tại sao lại cứ mãi lặp đi lặp lại như thế. Ham muốn tiếp tục ham muốn, thôi thúc làm chúng ta khát khao, đau khổ và tuyệt vọng. Cái gì trong nó và cái gì ngoài nó? Đại giác ngộ thành tựu chỉ khi chúng ta có thể hợp nhất được hai dòng năng lượng Phụ tính và Mẫu tính, từ bi và trí tuệ.

VAI TRÒ, TẦM QUAN TRỌNG CỦA PHỤ NỮ VÀ KHẢ NĂNG CHỨNG ĐẠT PHẬT QUẢ TRONG THÂN NỮ THEO THẾ GIỚI QUAN KIM CƯƠNG THỪA

Kim cương thừa cho ta một cái nhìn toàn diện, chi tiết, cụ thể và minh xác về những nguồn năng lượng từ bi và trí tuệ trong bản thân mỗi chúng ta, cách chúng vận hành, trôi chảy, tương tác với nhau như thế nào, làm thế nào để nhận diện được chúng, và cách thức chuyển hóa để đạt được sự cân bằng đại hợp nhất siêu việt hai nguồn năng lượng này. Chính khi đó đại giác ngộ vô thượng được thiết lập. Hết thảy chúng sinh nam nữ không chỉ bình đẳng về Phật tính và còn bình đẳng về cả khả năng chứng đạt Phật quả, nghĩa là không phải người nam có thể thành tựu dễ dàng hơn người nữ, và ngược lại, người nữ khó hoặc thậm chí là không thể viên mãn đạo quả trong hình tướng nữ nhân. Chính vì thế, trong Kim Cương Thừa, phụ nữ chiếm một vị trí vô cùng quan trọng, không thể thiếu và bằng nhiều cách khác nhau nêu biểu cho nguyên lý mẫu tính giác ngộ.

Người nữ được liên hệ với Đất mẹ, với vai trò nền tảng và kho tàng, suối nguồn của cuộc sống, năng lượng, về thể chất và tâm linh của tất cả chúng sinh. Kim cương thừa nhấn mạnh tới nguyên lý Mẫu tính giác ngộ thông qua những hình ảnh Phật mẫu Bát nhã, Phật mẫu Tara, biểu trưng cho cội nguồn của vạn pháp. Cho nên được gọi là mẹ của hết thảy chư Phật. Đặc trưng của nguyên lý Mẫu tính là năng lực hàm chứa, sản sinh và sáng tạo. Phật mẫu không phải là một ý chí sáng tạo ra quy luật và thế giới mà chính là bản thể của thế giới.

Trong Kim Cương thừa, tầm quan trọng và năng lực giác ngộ của người nữ được thể hiện thông qua các Thangka, Mandala, các biểu tượng và pháp khí. Hình ảnh Kim Cương Thánh Mẫu, Dakini trong tư thế vũ điệu thắng lạc hoặc an tọa trong tư thế thiền định với khế ấn đặc trưng, trang hoàng bằng những bảo man quý báu, những mảnh xương và vương miện bằng xương hoặc bằng hoa. Điều này khẳng định chắc chắn khả năng đạt được giác ngộ quả tức thân thành Phật ngay trong một đời của người nữ là điều có thể.

Trong Mật điển tán thán tầm quan trọng và khả năng thiền  định của nữ giới, như các bậc Yogini, Dakini, hay những bậc Trì Minh. Yogini nghĩa là hành giả nữ thực hành yoga, người nữ với năng lực thần thông hay Bản Tôn Thánh Mẫu. Dakini vượt trên nhận thức thông thường, đó là những “Không Hành Mẫu”, các ngài du hí tự tại trong tự tính pháp giới. Các ngài còn là bậc trì giữ trí tuệ, hiện thân của đức Phật mẫu Bát nhã, mẹ của chư Phật.

Những Dakini Trí Tuệ là những bậc đã giác ngộ như Vajra Yogini, họ cũng được miêu tả như là các Phật Mẫu Minh Phi của các bậc Hoạt Phật hay các bậc Bồ Tát. Dakini là một nguồn gốc của quy y. Bên cạnh việc quy y Tam Bảo, chúng ta cũng quy y tam Căn Bản (Guru, Yidam và Dakini – Thượng Sư, Bản Tôn và Không Hành); Dakini đại diện cho cội nguồn của các công hạnh giác ngộ bởi vì Dakini là năng lượng giác ngộ mẫu tính nêu biểu cho trí tuệ bản lai.

Dakini được gắn liền với hư không và có khả  năng sản sinh vô số tiềm năng của những công hạnh giác ngộ mà có thể chia thành bốn: Tức tai, Tăng ích, Kính ái và Hàng phục. Dakini cũng là những hiện thân của sự hợp nhất tính không và trí tuệ. Và sự hợp nhất này là siêu việt vô song. Đây là cảnh giới của sự tỉnh thức được kiểm soát, vững chắc và hoàn toàn tự do. Mọi người đều có khả năng và tiềm năng để chứng ngộ tự tính Dakini trí tuệ cho chính mình bất kể bạn là nam hay nữ.

Điều này có nghĩa là không có sự phân biệt giới tính, bất kể người nào cũng có phẩm chất của một Dakini trí tuệ hay năng lượng giác ngộ mẫu tính. Mặt khác lòng bi mẫn lại liên quan đến năng lượng Phụ tính và khi cả trí tuệ và lòng bi mẫn được trải rộng đến hoàn hảo, chúng ta đạt được giác ngộ và trở thành Phật. Dakini - những bản tôn hóa thần đại diện cho trí tuệ vĩ đại và nam hóa thần đại diện cho lòng đại bi.

Ngoài những biểu tượng giác ngộ trên, tầm quan trọng của người nữ còn được thể hiện thông qua việc trì giới trong Kim Cương thừa. Giới nguyện Samaya có tầm quan trọng trong Phật Giáo Kim Cương thừa, được các hành giả trì giữ nghiêm mật trên đạo lộ tu tập của mình. Có 14 đọa lạc căn bản, nếu hành giả phạm sẽ làm phá vỡ lời thệ nguyện trì giữ Samaya. Căn bản đọa thứ 14 nói rằng: Nếu miệt thị và coi thường người nữ thì có nghĩa hành giả đã phạm giới nguyện Samaya. Một khi còn những thái độ miệt thị như coi phụ nữ không có năng lực và khả năng tâm linh cũng tức là đã phạm vào giới nguyện Samaya. Nếu hành giả chỉ cần có một ý niệm không muốn giúp đỡ một người nữ cũng đã làm phá bể giới Samaya, còn trong trường hợp, nếu hành giả coi một nữ huynh đệ kim cương là kẻ thù thì đó là sự phá bể giới nguyện cao nhất.

Như vậy, ta thấy Kim Cương thừa chống lại mọi quan điểm phân biệt giới, mang lại một sự bình đẳng lớn lao cho người nữ và đặc biệt đề cao, coi trọng địa vị và tầm quan trọng của người nữ trong việc hành trì tu tập Mật giáo, bởi Kim Cương thừa dựa vào một nguyên lý vô cùng xác đáng: nguyên lý nữ tính nêu biểu cho trí tuệ tính không. Nói cách khác, người phụ nữ hiển diện một cách trực tiếp trong mục đích và lý tưởng của đạo Phật, bởi vậy miệt thị phụ nữ cũng chính là miệt thị đạo Phật. Sự miệt thị như vậy là một chướng ngại cho sự tu tập giác ngộ của cả nam và nữ.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ NỮ HÀNH GIẢ THÀNH TỰU GIÁC NGỘ TRONG KIM CƯƠNG THỪA?

Quay trở về với thực tế cuộc sống, rất nhiều người cho rằng phụ nữ không thể chứng đạt giác ngộ vì lý do thể chất yếu đuối, tâm sinh lý và nghiệp chướng nặng nề. Xét ở một chừng mực nào đó, sự thực là bản thân phụ nữ có rất nhiều thiếu sót và hạn chế. Về thể chất, phụ nữ không mạnh mẽ như nam giới, hơn nữa còn phải chịu ảnh hưởng tác động tiêu cực của thân thể vật lý mà điển hình là với chu kỳ hàng tháng. Ngoài ra, phụ nữ thường có thiên hướng dễ bị tình cảm chi phối nên khó kiểm soát được cảm xúc trong khi tu tập. Với thiên chức làm mẹ, phụ nữ thường hướng nội vì phải chăm sóc gia đình, con cái. Vì hầu hết thời gian, tâm trí và sức lực dành cả cho gia đình nên thật không dễ dàng để họ có thể dâng hiến trọn vẹn cho sự tu tập và giải thoát.

Bên cạnh những trở ngại đến từ bên trong, người phụ nữ còn gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại đến từ phía xã hội. Do nền giáo dục dựa trên sự phân biệt giới tính mang tính cố hữu, ngay từ thuở nhỏ, thay vì được giáo dưỡng và phát triển các phương diện mẫu tính và phụ tính giác ngộ trong mình, các bé gái được dạy dỗ từ thái độ, nhận thức cho đến những hành vi ứng xử bên ngoài như đi đứng, nằm ngồi, ăn mặc, v.v… theo cách mà xã hội áp đặt cho rằng một người nữ cần phải như vậy. Không những chỉ phải đối mặt với những thành kiến ngoài xã hội, khi bước chân vào con đường thực hành giáo pháp, các nữ hành giả cũng còn phải đối mặt với rất nhiều mặc cảm phân biệt giới tính một cách có ý thức và vô thức ngay trong bản thân cộng đồng Phật giáo nói chung.

Tuy nhiên, bên cạnh những điểm bất lợi và trở ngại trên, người nữ cũng có những thế mạnh nhất định trong tu tập thực hành. Đó chính là tín tâm dâng hiến và sự nhẫn nhục bền bỉ. Với tín tâm thanh tịnh và đức tính nhẫn nhục, nữ hành giả hoàn toàn có thể vượt qua được những chướng ngại về thân và tâm sinh lý hướng về đại giải thoát.

Vậy, làm thế nào để nữ hành giả tu tập thành tựu giác ngộ?

Để thực hành giáo pháp Kim cương thừa, điều kiện tiên quyết là nữ hành giả phải tìm được bậc Thượng sư giác ngộ thuộc một truyền thừa không gián đoạn, bất luận ngài là nam hay nữ và nghiêm cẩn tu tập theo sự giáo huấn, hướng đạo của ngài.

Kim cương thừa có nhiều phương pháp thù thắng để chuyển hóa những năng lượng tiêu cực, chứng đạt tính toàn vẹn nguyên thủy- sự hợp nhất từ bi và  trí tuệ vĩ đại trong ta. Dưới sự dẫn dắt của một bậc Thượng Sư giác ngộ, nữ hành giả có thể tu học bốn thứ lớp Tantra: Tantra nghi quỹ, Tantra hành động, Tantra Yoga và Tantra Yoga tối thượng. Mỗi thứ lớp dành cho một đối tượng hành giả đặc biệt; và điều khác biệt giữa thứ lớp này thứ lớp kia là mức độ năng lượng ham muốn mà hành giả có đủ thiện xảo để hướng nó vào con đường tu tập.

Phật giáo Kim cương thừa đưa ra rất nhiều phương pháp thiện xảo để trưởng dưỡng và tịnh hoá tâm. Những phương pháp này bao gồm các cách tu tập, quán tưởng về bản tôn, lập đàn, những nghi lễ đặc sắc, trang hoàng rực rỡ, vũ điệu và nghệ thuật linh thiêng, pháp thực hành yoga vi tế để chuyển hoá toàn bộ sự khao khát trần tục vào trong lĩnh vực hỉ lạc và giác ngộ thức tỉnh.

Ngoài ra, một trong những mục đích chính của việc hành trì Kim cương thừa là sự hoàn hảo thanh tịnh bên trong và thế giới bên ngoài bằng cách quán tưởng vũ trụ là một cảnh giới mandala, còn tự thân là Hóa Phật Bản tôn. Bản tôn được quán tưởng tượng trưng các hiện tướng của năng lượng giác ngộ và những công hạnh giải thoát. Ví dụ, Đức Phật mẫu Tara biểu trưng cho sự giải thoát, bảo vệ những người cầu nguyện khỏi sự nguy hiểm tinh thần và vật chất với lòng bi mẫn của đức từ mẫu, trong khi nụ cười hỷ lạc và an bình của ngài biểu trưng cho sự an lạc, vượt thoát khổ đau. Đức Kim Cương Phật Mẫu Vajrayogini là đức Phật mẫu thành tựu chứng ngộ đại hợp nhất tính không và đại hỷ lạc, thể tính của ngài là không hình, không tướng, tuy nhiên ngài hóa thân thị hiện trong sắc tướng thiếu nữ trẻ trung để mang lại sự tự tin, sự tín tâm cho  người nữ giúp họ có được niềm tin vững chắc vào bản tính Phật mẫu, bản chất Phật tính và tiềm năng giác ngộ vốn có trong mình từ đó giúp khai phát, hiển lộ niềm tự hào kim cương về bản chất Phật Mẫu tính nơi mình.

Trong Kim cương thừa, cũng giống như những bậc Đại Thành tựu giả xuất hiện trong hình tướng nam nhân, có rất nhiều những Yogini vĩ đại thành tựu giác ngộ tối thượng trong thân người nữ ngay trong một đời. Các Ngài đã khai phát, chứng ngộ nguồn năng lượng Phật Mẫu tính và Phật phụ tính trong mình. Đây là những tấm gương, là những mẫu hình sống động cho nhiều thế hệ, đặc biệt đối với người nữ, những người chân thành khát ngưỡng tìm cầu giáo pháp giải thoát. Các Ngài không chỉ là những bậc thành tựu giác ngộ ngay trong một đời mà những công hạnh nhập thế của các ngài cũng vô cùng mãnh liệt và lợi ích, có những ảnh hưởng và đóng góp to lớn cho Phật Giáo Kim cương thừa. Bởi vậy công hạnh và tiểu sử của các nữ hành giả Kim cương thừa khơi dậy niềm cảm hứng, sự tôn kính, hy vọng và tín tâm bất thoái chuyển đối với người nữ rằng họ có thể tu tập giáo pháp giải thoát và thành tựu giác ngộ ngay trong một đời. Công hạnh và tiểu sử của các nữ hành giả Yogini vĩ đại trong lịch sử Kim cương thừa như Đức Yeshe Tsogyal bậc trí tuệ đa văn đệ nhất giống như ngài Ananda, Yogini Niguma nữ đại thành tựu giả đã sáng lập sáu pháp Yoga của Niguma, Gelongma Palmo ngưới sáng lập pháp thực hành Nyungnay- pháp đại thành tựu Avalokiteshvhara, Machig Labdron (1055-1152) bậc thượng thủ Truyền thừa Chod,... được ghi lai một cách minh xác trong lịch sử là những minh chứng cho chân lý rằng: sự thành tựu giác  ngộ nơi người nữ ngay trong một đời là một thực tế. Tiềm năng giác ngộ, nguồn năng lượng Phật mẫu tính và Phật phụ tính đều sẵn có nơi mỗi người nam và cả  người nữ. Bởi vậy cho dù là người nam hay người nữ, dù ở địa vị xã hội nào, nếu có tín tâm dâng hiến, sự tự tin tu trì thì đều có thể chứng đạt hợp nhất bi trí dũng, để đem suối nguồn giác ngộ lợi ích cho muôn loài chúng sinh.

GIẢI PHÁP MANG TÍNH XÃ HỘI VÀ CỘNG ĐỒNG CHO NGƯỜI NỮ - BƯỚC CẢI CÁCH TRONG NHẬN THỨC VÀ HẠNH ĐỘNG ĐỐI VỚI NỮ HÀNH GIẢ TRUYỀN THỪA DRUKPA

(Chư ni tự viện Druk Amitabha Moutain trong một khoá lễ tại tự viện)

Trong giới hạn khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin được giới thiệu về Truyền thừa Drukpa thuộc truyền thống Kim cương thừa – Đại thừa Phật giáo, dưới sự dẫn dắt của Đức Toàn Tri Tôn Quý Pháp Vương Gyalwang Drukpa với những chủ trương và hành động thực sự dựa trên căn bản của giác ngộ không phân biệt giới tính, đã và đang đem lại sự giải phóng đích thực như thế nào cho các nữ hành giả.

Truyền thừa Drukpa có lịch sử phát triển huy hoàng hơn 800 năm tới nay với những bậc hành giả chân tu, khổ hạnh, thanh tịnh và thành tựu giác ngộ ngay trong một đời. Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa luôn tâm nguyện mang lại cơ hội bình đẳng trong việc thực hành giáo pháp cho những nữ hành giả và trì giữ Truyền thừa Togdenma. Đức Pháp Vương đã chia sẻ quan kiến rằng: “Giác ngộ không phân biệt giới tính, từ bi không phân biệt giới tính, trí tuệ không phân biệt giới tính. Về bản lai, chúng ta đều là Phật”, và “Tất cả mọi người, bất kể là nam hay nữ, đều có tiềm năng và có quyền chứng đạt Phật quả cứu kính”.

Ngài đã thực hiện rất nhiều dự án với tâm nguyện nâng cao địa vị của nhành giả trong cộng đồng tâm linh Truyền thừa Drukpa. Ngài đã bảo trợ nâng đỡ tự viện Druk Gawa Khiwa Abbey - một cộng đồng tâm linh cho nữ hành giả. Nơi đây, các nữ hành giả đã được trao cơ hội tu tập các pháp tu thâm diệu của Truyền thừa Drukpa, trong số đó đã có những nữ hành giả đã có những sự tiến bộ tâm linh cao cấp, được tu các pháp tu đặc biệt như Sáu Pháp Yoga của Naropa dưới sự hướng đạo trực tiếp của Đức Pháp Vương. Đức Pháp vương cũng đã trao cho nữ hành giả rất nhiều cơ hội sự bình đẳng trong sự tu tập như trong suốt Lễ hội Naropa, Đức Pháp vương đã cho phép 200 ni sư chịu trách nhiệm cử hành nghi lễ trước sự hiển diện của hơn 135 ngàn tăng ni Phật tử. Có thể nói đây là một bước đột phá trong truyền thống Phật giáo Kim cương thừa bởi lẽ thông thường các chư Tăng vẫn đảm nhận vai trò này.

 

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Số lượt truy cập: 3,118,881
Số người trực tuyến: